[Tải PDF] Các Quy Tắc Trong Kinh Tế Học PDF

Thuvienso.org – Cuốn sách Các Quy Tắc Trong Kinh Tế Học được viết bởi tác giả Dani Rodrik, bàn về chủ đề Khoa học kỹ thuật và được in với hình thức .

Quyển sách Các Quy Tắc Trong Kinh Tế Học được nhà xuất bản Bìa Mềm phát hành
2019 .

Bạn đang xem: Các Quy Tắc Trong Kinh Tế Học PDF

Thông tin về sách

Tác giả Dani Rodrik
Nhà xuất bản Bìa Mềm
Ngày xuất bản 2019
Số trang 197
Loại bìa
Trọng lượng 200 gram
Người dịch Nguyễn Trung Hiếu

Download ebook Các Quy Tắc Trong Kinh Tế Học PDF

Các Quy Tắc Trong Kinh Tế Học

Tải sách Các Quy Tắc Trong Kinh Tế Học PDF ngay tại đây

Review sách Các Quy Tắc Trong Kinh Tế Học

Hình ảnh bìa sách Các Quy Tắc Trong Kinh Tế Học

image

image

image

Đang cập nhật…

Nội dung sách Các Quy Tắc Trong Kinh Tế Học

Cuốn sách này sẽ cho bạn biết:

– Những cái đúng, cái sai của “môn khoa học buồn thảm”
– Tại sao kinh tế học thành công và thất bại?
– Sự cần thiết của việc xây dựng mô hình kinh tế và việc sử dụng toán trong kinh tế học.
– Kinh tế học là một môn khoa học xã hội hay một thứ khoa học ghê gớm nào khác?

“…Kinh tế học là một môn khoa học xã hội, và xã hội không có các quy tắc cơ bản – hay chí ít, không hoàn toàn giống với tự nhiên… Các nhà kinh tế thường đi sai đường bởi vì họ thích nghĩ mình như một nhà vật lý hay một chuyên gia toán học…” (Dani Rodrik) 

Tác giả Dani Rodrik

Dani Rodrik là Giáo sư ngành Kinh tế Chính trị Quốc tế tại Trường Nghiên cứu Chính sách John F. Kennedy thuộc Đại học Harvard. Ông là chuyên gia hàng đầu thế giới hiện nay trong các nghiên cứu về Kinh tế Phát triển, Kinh tế Quốc tế và Kinh tế Chính trị.

Các cuốn sách đã xuất bản của ông gồm: Economics Rules: The Rights and Wrongs of the Dismal Science (2015); The Globalization Paradox: Democracy and the Future of the World Economy (2011) và Straight Talks on Trade: Ideas for a Sane World Economy (2017).

Nhận xét

“Các Quy Tắc Trong Kinh tế học, được viết bởi một trong những nhà kinh tế lớn của thế giới đương đại, đưa ra những chi tiết cụ thể và hấp dẫn về ý nghĩa của việc trở thành một nhà kinh tế. Tác giả đã giải thích tại sao và khi nào các nhà kinh tế đi đúng hướng và khi nào thì họ đi sai đường. Các Quy tắc trong Kinh tế học là một cuốn sách cần thiết cho các nhà kinh tế vì những gì họ nói sẽ trở thành mục tiêu thảo luận. Và ngay cả những người ngoài ngành cũng nên đọc cuốn sách này để có những góc nhìn chính xác về kinh tế học và các nhà kinh tế.”

(George Akerlof – Nobel Kinh tế 2001)

Điểm lại các quy tắc trong kinh tế học: Những cái đúng và sai của môn khoa học buồn thảm, của tác giả Dani Rodrik (Norton, 2015)

Peter Turchin

Đại học Connecticut Seshat: Global History Databank [Seshat: Ngân hàng Dữ liệu Lịch sử Toàn cầu]

Dòng quảng cáo trên áo khoác cho cuốn Economics Rules [Các quy tắc trong kinh tế học] có đoạn: “Trong kiệt tác sắc nét này, Dani Rodrik, một nhà phê bình hàng đầu từ trong giới kinh tế học, đã nhìn cận cảnh kinh tế học để xem khi nào thì nó thất bại và khi nào thì nó hiệu quả, để mang lại một báo cáo lạc quan đáng ngạc nhiên về bộ môn”. Tôi hoàn toàn đồng ý với hầu hết lời mô tả này, trừ chữ “lạc quan”. Bởi vì tôi sẽ giải thích cho đến cuối bài phê bình này, quan điểm của tôi về kinh tế học, và, đặc biệt, về vai trò của các nhà kinh tế trong các chính sách công, một quan điểm phê phán hơn nhiều.

Một chủ đề trung tâm trong cuốn sách là vai trò của các mô hình toán học trong kinh tế học. Các mô hình chính thức về kinh tế học và các khoa học xã hội khác thường bị đánh giá thấp. Theo các nhà phê bình (trong đó có một số nhà kinh tế, nhiều nhà khoa học xã hội khác, và đại đa số các nhà sử học), thì các mô hình này đơn giản hoá quá đáng thực tế phức tạp, sử dụng những giả định phi thực tế và chối bỏ vai trò “trung gian” gắn với con người.

Rodrik bác bỏ lời phê bình này. Theo ông, các mô hình toán học – “sự đơn giản hóa được thiết kế để chỉ ra cách thức hoạt động của những cơ chế cụ thể, qua việc cô lập chúng với các cơ chế khác, với các hiệu ứng gây nhiễu” – là sức mạnh đích thực của kinh tế học. Một mô tả thực tế được đơn giản hoá không phải là một thiếu sót, đó là bản chất của một mô hình tốt.

Tôi được đào tạo về sinh học toán học, và khi còn là một sinh viên đại học trong những năm 1980 tôi đã nhìn thấy đoạn cuối của “Cuộc chiến Toán học” trong sinh thái học. Vào những năm 1990 cuộc chiến đã ngả ngũ, và bất kỳ một khoa sinh thái và tiến hóa đáng kính nào đều phải có ít nhất một người thiết kế mô hình trong đội ngũ giảng viên. Ngày nay, đại đa số các nhà sinh thái học đều đồng ý rằng một khoa học không thể trở thành một Khoa học cho đến khi và trừ khi nó phát triển một cấu trúc rõ ràng về lý thuyết toán học.

Trong các ngành khoa học xã hội, nhiều bộ môn khác nhau đã tiến hành sự chuyển đổi này vào nhiều thời điểm khác nhau, với kinh tế học đứng đầu trong nhóm chậm trễ [chuyển đổi], như sử học, chỉ mới tiến hành quá trình chuyển đổi này bây giờ (từ nay có động lực học lịch sử (cliodynamics) – xem “lịch sử như là một khoa học”, điều đáng lưu ý là hầu hết các nhà sử học Mỹ đều coi lịch sử không như là một khoa học xã hội, mà là một khoa học nhân văn).

Do đó, tôi đã có một chút bối rối khi đọc lời bào chữa của Rodrik cho các mô hình toán học (liệu các nhà kinh tế đã giải quyết xong chưa Cuộc chiến Toán học?). Nhưng đó là một lời bào chữa xuất sắc – tất cả các nhà động lực học lịch sử có nhiệt huyết nên đọc cuốn Economics Rules [Các quy tắc trong kinh tế học], cho dù chỉ vì lý do này mà thôi.

Danh mục các lý do vì sao chúng ta cần đến các mô hình toán học trong một bộ môn khoa học là điều quen thuộc đối với tất cả những ai đã có nhiều kinh nghiệm về thiết kế mô hình (và đối với những ai chưa có kinh nghiệm đó, tôi đề nghị nên đọc Chương 1 và 2 của cuốn Các quy tắc trong kinh tế học). Các mô hình làm rõ logic của các giả thuyết, đảm bảo các tiên đoán thực sự được xây dựng trên những tiên đề, mở ra những khả năng phản trực giác, gợi ý cách thức các tiên đoán có thể được kiểm định, và cho phép tích lũy kiến ​​thức. Ưu điểm về tính rõ ràng của các mô hình toán học đối với các nhà khoa học đã được minh họa một cách tốt trong đoạn trích sau đây từ cuốn Các quy tắc trong kinh tế học: “Ngày nay, chúng ta vẫn không ngừng tranh luận về những gì mà Karl Marx, John Maynard Keynes, hoặc Joseph Schumpeter thực sự muốn nói… Ngược lại, không có bút mực nào nói về những gì mà Paul Samuelson, Joe Stiglitz, hayKen Arrow có trong đầu khi họ phát triển những lý thuyết đã mang lại giải thưởng Nobel cho họ “Sự khác biệt là gì? Ba nhà kinh tế đầu đã xây dựng các lý thuyết của họ phần lớn bằng lời văn, trong khi ba nhà kinh tế sau đã phát triển các mô hình toán học.

Tuy nhiên, giá trị của cuốn sách không chỉ là việc cân nhắc tính hữu dụng của các mô hình toán học. Như Rodrik đã lưu ý ngay từ đầu cuốn sách, “kinh tế học, nói chung, là khoa học xã hội duy nhất vẫn còn gần như không thể hiểu được đối với những ai không trải nghiệm quá trình học nghề cần thiết tại trường đại học”. Và kinh tế học “không thể hiểu được” không phải là vì các mô hình toán học, ít nhất không phải đối với những những ai đã được đào tạo về các khoa học tự nhiên toán học (toán học mang tính phổ quát), mà là vì các nhà kinh tế đã phát triển một biệt ngữ hoàn toàn khác biệt, đặt mình tách khỏi các bộ môn khác và tạo ra những rào cản nhân tạo để hiểu được nhiều kiến thức sâu sắc thực sự đáng giá từ các mô hình kinh tế học.

Do tôi chưa “trải nghiệm quá trình học việc cần thiết”, tôi thấy những lời giải thích của Rodrik rất hữu ích về những kiến thức sâu sắc của những mô hình cổ điển như thế trong kinh tế học, như First Fundamental Theorem of Welfare Economics [Định lý cơ bản đầu tiên của Kinh tế học Phúc lợi], Principle of Comparative Advantage [Nguyên lý Lợi thế so sánh], và General Theory of Second Best [Lý thuyết tổng quát của tối ưu cấp hai]. Điều đặc biệt sáng tỏ là cuộc thảo luận về những gì xảy ra đối với những kết quả cơ bản của một mô hình, khi chúng ta bắt đầu nới lỏng một cách có hệ thống nhiều giả định khác nhau mà nó phụ thuộc. Phần này của cuốn sách, cùng với các tài liệu tham khảo mà Rodrik đã viện dẫn, có thể được xem như là cơ sở cho một khóa học mini tuyệt vời về những gì mà lý thuyết kinh tế học thực sự muốn cho chúng ta biết.

Và thông điệp chung từ cuộc thảo luận này là nếu chúng ta muốn hiểu những Câu hỏi lớn [Big Questions] – khi nào thì thị trường hoạt động hiệu quả hay thất bại, cần những gì để cho các nền kinh tế tăng trưởng, và hiệu ứng của sự thâm hụt chi tiêu là gì – thì không phải chỉ có một mô hình cơ bản, “Mô hình”. Thay vào đó, chúng ta cần phải nghiên cứu một loạt các mô hình, mỗi mô hình nói lên một phần câu chuyện.

Cho đến đây, mọi thứ vẫn tốt đẹp. Nhưng theo tôi, Rodrik đã đi quá xa khi phủ nhận giá trị của lý thuyết tổng quát. Có một lúc, ông đã viết, “xã hội không có các luật cơ bản – ít nhất theo cùng cách của tự nhiên.” Và “cùng một lý thuyết tiến hóa cũng áp dụng ở cả Bắc bán cầu lẫn Nam bán cầu”, nhưng “các mô hình kinh tế thì khác nhau.”

Không hẳn vậy. Hãy thử lấy lý thuyết tiến hóa. Đó không phải là một mô hình đơn nhất. Đó là một khung lý thuyết bao gồm hàng trăm, có lẽ hàng ngàn trường hợp đặc biệt về mô hình, mỗi mô hình chỉ nói lên một phần câu chuyện. Để dẫn chứng hãy lấy một ví dụ, các sách giáo khoa về lý thuyết tiến hóa thường bắt đầu bằng một mô hình đơn locus với hai gen (cho chúng ta Cân bằng Hardy-Weinberg nổi tiếng). Nhưng bạn sẽ cần có nhiều mô hình khác nhau cho các sinh vật đơn bội (chẳng hạn như vi khuẩn, thứ có một nhiễm sắc thể đơn chưa kết đôi), hoặc cho các sinh vật sinh sản vô tính; và còn một tập hợp các mô hình khác cho sự lựa chọn theo kiểu ngoại cảnh. Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau về mô hình hóa, nhưng có một sự thống nhất về mặt lý thuyết trong sinh học tiến hóa. Đặc biệt, khung khái niệm của lý thuyết tiến hóa cung cấp một tập hợp những hướng dẫn cho các nhà lý thuyết về việc sử dụng mô hình nào trong một bối cảnh nào đó.

Và tôi không thấy được làm thế nào tình hình lại khác trong kinh tế học (và rộng hơn, là trong các khoa học xã hội). Vâng, có rất nhiều mô hình về kinh tế học, nhưng bạn không thể chọn ngẫu nhiên một mô hình (hoặc tệ hơn, “chọn lựa cẩn thận hơn” trong số những kết quả nào phù hợp với nghị trình ý thức hệ của bạn). Có các quy tắc để lựa chọn những mô hình thích hợp, và Rodrik dành chương 3 trong cuốn sách của ông để giải thích các nguyên lý chung của việc lựa chọn mô hình trong kinh tế học. Nói cách khác, các khung lý thuyết không đơn giản là một tập hợp các mô hình, mà còn gồm có các quy tắc lựa chọn mô hình (và một vài thứ khác nữa).

Do đó, Rodrik đã bán khống tiềm năng của lý thuyết tổng quát trong các khoa học xã hội. Tất nhiên, đặc biệt là kinh tế học không có một khung lý thuyết được xây dựng một cách kỹ lưỡng, rõ ràng, và có giá trị thực nghiệm như sinh học tiến hoá (thế mà, sinh học tiến hóa lại tụt hậu sau nhiều chuyên ngành của vật lý học). Nhưng ai dám nói rằng kinh tế học sẽ không phát triển đến một cấp độ tương tự trong tương lai? Chúng ta sẽ thấy được điều đó nếu còn sống đủ lâu.

Chúng ta hãy đổi đề tài và nói về Chương 5, “When Economists Go Wrong [Khi các nhà kinh tế đi sai đường]”. Để cho cuộc thảo luận sau đây cụ thể hơn, tôi sẽ tập trung vào một kết quả lý thuyết cụ thể trong kinh tế học, Principle of Comparative Advantage [Nguyên lý của lợi thế so sánh], và những gì mà nguyên lý này hàm ý cho chính sách thương mại. Trên báo chí cho đại chúng, tất nhiên, lợi thế so sánh luôn được sử dụng như là một sự biện minh cho thương mại tự do. Rodrik đã làm một việc đáng khâm phục là giải thích vì sao, với nhiều điều kiện khác nhau, thương mại tự do có thể dẫn đến những hệ quả thực sự tiêu cực cho các nền kinh tế và người dân của những quốc gia tự mở cửa cho cuộc cạnh tranh quốc tế. Ví dụ, đó là hành vi chiến lược. Một quốc gia có thể chọn cách bảo vệ ngành công nghiệp trong nước của họ với các loại thuế cao và trợ cấp cho ngành xuất khẩu của họ để giành thị phần. Có lẽ, các nhà lãnh đạo của các quốc gia đó không hiểu về Nguyên lý của Lợi thế So sánh, không có cơ hội học nghề về kinh tế học. Hoặc có lẽ họ quan tâm nhiều hơn đến sự sống còn lâu dài của đất nước họ trong một môi trường quốc tế hỗn loạn, hơn là tạo ra lợi nhuận trước mắt.

Mua sách Các Quy Tắc Trong Kinh Tế Học ở đâu

Bạn có thể mua sách Các Quy Tắc Trong Kinh Tế Học tại đây với giá

152.000 đ
(Cập nhật ngày [dt]/[mm]/[year] )

Tìm kiếm liên quan

Các Quy Tắc Trong Kinh Tế Học PDF

Các Quy Tắc Trong Kinh Tế Học MOBI

Các Quy Tắc Trong Kinh Tế Học Dani Rodrik ebook

Các Quy Tắc Trong Kinh Tế Học EPUB

Các Quy Tắc Trong Kinh Tế Học full

[su_spoiler title=”Tìm hiểu thêm” open=”no” style=”default” icon=”plus” anchor=”” anchor_in_url=”no” class=””]Khoa học công nghệ
Danny Roderick
bìa mềm

2019

197

200

Ruan Zhongxiao

Cuốn sách này sẽ cho bạn biết:

– Đúng và Sai của “Khoa học buồn”
– Tại sao kinh tế học thành công và thất bại?
Sự cần thiết của mô hình kinh tế và việc sử dụng toán học trong kinh tế.
– Kinh tế học là một khoa học xã hội hay một số khoa học tuyệt vời khác?

“… kinh tế học là một khoa học xã hội, và xã hội không có quy tắc cơ bản – hoặc ít nhất là không hoàn toàn giống như tự nhiên … Các nhà kinh tế học thường đi sai đường vì họ thích nghĩ mình là nhà vật lý hoặc toán học …” (Dani Rodrik)

bởi Danny Roderick

Dani Rodrik là Giáo sư Kinh tế Chính trị Quốc tế tại Trường Nghiên cứu Chính sách Harvard Kennedy. Ông hiện là chuyên gia hàng đầu thế giới về kinh tế phát triển, kinh tế quốc tế và kinh tế chính trị.

Các cuốn sách đã xuất bản của ông bao gồm: Quy tắc kinh tế: Đúng và sai của khoa học bi quan (2015); Nghịch lý toàn cầu hóa: Dân chủ và tương lai của nền kinh tế thế giới (2011) và Cuộc nói chuyện trực tiếp thương mại: Ý tưởng cho nền kinh tế thế giới vững chắc (2017) ).

Bình luận

“Quy tắc Kinh tế, được viết bởi một trong những nhà kinh tế học vĩ đại của thế giới đương đại, đưa ra những chi tiết cụ thể và thú vị về ý nghĩa của việc trở thành một nhà kinh tế. Các Quy tắc Kinh tế là một cuốn sách cần thiết cho các nhà kinh tế học vì những gì họ nói sẽ trở thành chủ đề thảo luận. Ngay cả những người ngoài cuộc cũng nên đọc cuốn sách này để hiểu chính xác kinh tế học là gì và các nhà kinh tế học. “

(George Akerlof – Giải Nobel Kinh tế 2001)

Rà soát các Quy tắc Kinh tế: Đúng và Sai của Khoa học về Đau buồn, Dani Rodrik (Norton, 2015)

Peter Turchin

Đại học Connecticut Seshat: Cơ sở dữ liệu lịch sử toàn cầu [Seshat: Ngân hàng Dữ liệu Lịch sử Toàn cầu]

Quảng cáo bìa cho cuốn sách “Quy luật kinh tế” [Các quy tắc trong kinh tế học] Trong kiệt tác sắc như dao cạo này, nhà bình luận kinh tế hàng đầu Dani Rodrik đã xem xét kỹ lưỡng về kinh tế học để xem khi nào nó thất bại và khi nào nó hoạt động, đồng thời đưa ra một mệnh lệnh về chủ đề báo cáo lạc quan đáng ngạc nhiên. Tôi hoàn toàn đồng ý với hầu hết mô tả này, ngoại trừ từ “lạc quan” Như tôi sẽ giải thích quan điểm của tôi về kinh tế học ở phần cuối của bài đánh giá này, đặc biệt là vai trò của các nhà kinh tế trong chính sách công, đó là một điểm mấu chốt hơn.

Chủ đề trung tâm của cuốn sách này là vai trò của các mô hình toán học trong kinh tế học. Các mô hình chính thức trong kinh tế học và các ngành khoa học xã hội khác thường bị đánh giá thấp. Theo các nhà phê bình (bao gồm một số nhà kinh tế học, nhiều nhà khoa học xã hội khác và đại đa số các nhà sử học), những mô hình này đơn giản hóa thực tế phức tạp một cách quá mức, sử dụng các giả định phi thực tế và phủ nhận vai trò “người trung gian” liên quan đến con người.

Roderick bác bỏ lời chỉ trích này. Theo ông, các mô hình toán học – “sự đơn giản hóa được thiết kế để chỉ ra cách thức hoạt động của các cơ chế cụ thể, tạo ra các hiệu ứng nhiễu bằng cách cô lập chúng với các mô hình khác” – là sức mạnh thực sự của kinh tế học. Mô tả đơn giản về thực tế không phải là nhược điểm mà là bản chất của một mô hình tốt.

Tôi được đào tạo về sinh học toán học, và là một sinh viên đại học vào những năm 1980, tôi đã chứng kiến ​​sự kết thúc của “cuộc chiến toán học” trong sinh thái học. Vào những năm 1990, chiến tranh đã kết thúc và bất kỳ bộ phận sinh thái và tiến hóa nào được kính trọng đều phải có ít nhất một người lập mô hình. Ngày nay, đại đa số các nhà sinh thái học đồng ý rằng một khoa học không thể là một khoa học trừ khi và trừ khi nó phát triển một cấu trúc lý thuyết toán học rõ ràng.

Trong khoa học xã hội, các ngành khác nhau đã thực hiện sự thay đổi này vào những thời điểm khác nhau, trong đó kinh tế học đứng đầu danh sách. [chuyển đổi]Cũng giống như lịch sử, sự chuyển dịch này đang diễn ra ngay bây giờ (sau đây được gọi là khí động học – coi “lịch sử như một khoa học”, điều đáng chú ý là hầu hết các nhà sử học Mỹ tin rằng lịch sử không phải là một khoa học xã hội, mà là một khoa học nhân văn).

Vì vậy, khi tôi đọc lời bào chữa của Roderick cho các mô hình toán học, tôi hơi bối rối (các nhà kinh tế học có giải được các cuộc chiến toán học không?).Nhưng đây là một lý do chính đáng – các quy tắc kinh tế học nên được đọc bởi tất cả các nhà sử học đam mê [Các quy tắc trong kinh tế học]ngay cả khi chỉ vì lý do này.

Danh sách các lý do tại sao chúng ta cần các mô hình toán học trong khoa học nên quen thuộc với tất cả mọi người có kinh nghiệm thiết kế mô hình sâu rộng (cũng như những người không có. Dựa trên những kinh nghiệm này, tôi khuyên bạn nên đọc Chương 1 và 2 của Chương Quy tắc Kinh tế học). Các mô hình làm rõ logic của các giả định, đảm bảo rằng các dự đoán thực sự được xây dựng trên các tiên đề, mở ra các khả năng phản trực giác, gợi ý cách kiểm tra các dự đoán và cho phép tích lũy kiến ​​thức. Đoạn trích sau đây từ Quy tắc Kinh tế học nêu lên những ưu điểm của sự rõ ràng của mô hình toán học đối với các nhà khoa học: “Ngày nay, chúng ta vẫn đang tranh cãi. Tranh luận về Karl Marx, John Maynard Keynes, hoặc Joseph Schumpeter. Điều đó thực sự có nghĩa là gì … Paul Samuelson hoặc Joe Stiglitz hay Ken Arrow đã nghĩ đến khi họ phát triển lý thuyết của mình, tôi không có lời nào để nói. Lý thuyết đã mang lại cho họ giải Nobel “Sự khác biệt là gì? Ba nhà kinh tế học đầu tiên chủ yếu xây dựng lý thuyết của họ bằng lời nói, trong khi ba nhà kinh tế sau phát triển các mô hình toán học.

Tuy nhiên, giá trị của cuốn sách này vượt ra ngoài việc xem xét tính hữu dụng của các mô hình toán học. Như Roderick đã chỉ ra bên ngoài cuốn sách, “Nói chung, kinh tế học là môn khoa học xã hội duy nhất hầu như không thể hiểu được đối với những người chưa trải qua quá trình học việc cần thiết ở trường đại học”. Và kinh tế học “không thể hiểu nổi” không phải vì các mô hình toán học, ít nhất không phải bởi những người được đào tạo về khoa học tự nhiên của toán học (toán học là phổ thông), mà bởi vì các nhà kinh tế học đã phát triển một biệt ngữ hoàn toàn khác, phân biệt chúng với các ngành khác. những hiểu biết có giá trị để hiểu từ mô hình. Kinh tế học.

Vì tôi chưa “trải qua quá trình học việc cần thiết”, tôi thấy lời giải thích của Roderick rất hữu ích để hiểu các mô hình cổ điển trong kinh tế học, chẳng hạn như định lý cơ bản đầu tiên của kinh tế học phúc lợi. [Định lý cơ bản đầu tiên của Kinh tế học Phúc lợi]nguyên tắc lợi thế so sánh [Nguyên lý Lợi thế so sánh]và lý thuyết chung về mức tối ưu dưới mức tối ưu [Lý thuyết tổng quát của tối ưu cấp hai]Thảo luận về những gì xảy ra với các kết quả cơ bản của mô hình đặc biệt có tính hướng dẫn khi chúng ta bắt đầu nới lỏng một cách có hệ thống các giả định khác nhau mà nó dựa vào. Phần này của cuốn sách, cùng với các tài liệu tham khảo được trích dẫn bởi Roderick, có thể là cơ sở cho một khóa học nhỏ về những gì lý thuyết kinh tế thực sự muốn nói với chúng ta.

Kết luận chung của cuộc thảo luận này là nếu chúng ta muốn hiểu về [Big Questions] – điều gì cần thiết cho tăng trưởng kinh tế khi thị trường hoạt động hoặc thất bại, và tác động của chi tiêu thâm hụt là gì – có nhiều hơn một mô hình cơ bản, một “mô hình”. Thay vào đó, chúng ta cần nghiên cứu một loạt các mô hình, mỗi mô hình kể một phần của câu chuyện.

Càng xa càng tốt. Nhưng đối với tôi, dường như Roderick đã đi quá xa khi phủ nhận tính hợp lý của lý thuyết chung. Có lúc, ông viết, “xã hội không có quy luật cơ bản – ít nhất là giống với tự nhiên.”

Không hẳn vậy. Hãy lấy sự tiến hóa làm ví dụ. Nó không phải là một mô hình duy nhất. Đó là một khung lý thuyết bao gồm hàng trăm hoặc thậm chí hàng nghìn trường hợp đặc biệt của các mô hình, mỗi mô hình chỉ kể một phần của câu chuyện. Ví dụ, sách giáo khoa về sự tiến hóa thường bắt đầu với một mô hình locus đơn có hai gen (cho chúng ta cân bằng Hardy-Weinberg nổi tiếng). Nhưng đối với các sinh vật đơn bội (chẳng hạn như vi khuẩn có một nhiễm sắc thể chưa ghép đôi) hoặc sinh vật sinh sản vô tính, bạn sẽ cần một mô hình khác; có một bộ mô hình khác để lựa chọn. Bất chấp các cách tiếp cận mô hình khác nhau, có sự đồng thuận về mặt lý thuyết trong sinh học tiến hóa. Đặc biệt, khung khái niệm của thuyết tiến hóa cung cấp một tập hợp các hướng dẫn cho các nhà lý thuyết về việc sử dụng mô hình nào trong một bối cảnh nhất định.

Và tôi không thấy mọi thứ khác nhau như thế nào trong kinh tế học (và khoa học xã hội rộng hơn). Đúng vậy, có nhiều mô hình trong kinh tế học, nhưng bạn không thể chọn ngẫu nhiên một mô hình (hoặc tệ hơn, “hãy chọn cẩn thận hơn” trong số các kết quả phù hợp với chương trình tư tưởng của bạn). ). Có những quy tắc để lựa chọn mô hình phù hợp, và chương 3 của cuốn sách của Rodrik được dành để giải thích các nguyên tắc chung của việc lựa chọn mô hình trong kinh tế học. Nói cách khác, khung lý thuyết không chỉ là một tập hợp các mô hình, mà còn là các quy tắc lựa chọn mô hình (trong số những thứ khác).

Do đó, Roderick rút ngắn tiềm năng của lý thuyết chung trong khoa học xã hội. Tất nhiên, kinh tế học, đặc biệt, không có khung lý thuyết được xây dựng đầy đủ, rõ ràng và có giá trị thực nghiệm như sinh học tiến hóa (tuy nhiên, sinh học tiến hóa thua xa các chuyên ngành vật lý). Nhưng ai có thể nói rằng nền kinh tế sẽ không phát triển đến mức tương tự trong tương lai? Nếu chúng ta sống đủ lâu, chúng ta sẽ thấy điều này.

Hãy chuyển chủ đề và nói về Chương 5, “Khi các nhà kinh tế học sai [Khi các nhà kinh tế đi sai đường]Để làm cho cuộc thảo luận sau cụ thể hơn, tôi sẽ tập trung vào một kết quả lý thuyết cụ thể trong kinh tế học, nguyên tắc lợi thế so sánh. [Nguyên lý của lợi thế so sánh], và tác động của nguyên tắc này đối với chính sách thương mại. Tất nhiên, trên các phương tiện thông tin đại chúng, lợi thế so sánh luôn được sử dụng như một biện minh cho thương mại tự do. Roderick đã thực hiện một công việc đáng ngưỡng mộ là giải thích tại sao, trong nhiều điều kiện khác nhau, thương mại tự do có thể có những tác động tiêu cực thực sự đến nền kinh tế và người dân của các nước mở. cánh cửa cạnh tranh quốc tế. Ví dụ, đó là một hành động chiến lược. Một quốc gia có thể lựa chọn bảo hộ ngành công nghiệp nội địa của mình bằng thuế cao và trợ cấp cho hàng xuất khẩu của mình để giành thị phần. Có lẽ các nhà lãnh đạo của các quốc gia đó đã không hiểu các nguyên tắc của lợi thế so sánh và không có cơ hội để nghiên cứu kinh tế. Có lẽ họ quan tâm đến sự tồn tại lâu dài của đất nước trong môi trường quốc tế đầy biến động hơn là lợi nhuận trước mắt.

quy luật kinh tế
hình ảnh
hình ảnh
hình ảnh

đề nghị đặc biệt
152,000 vnđ

2019

[/su_spoiler]

Leave a Comment