[Tải PDF] Thiết Lập Tịnh Độ PDF

Thuvienso.org – Cuốn sách Thiết Lập Tịnh Độ được viết bởi tác giả Thích Nhất Hạnh, bàn về chủ đề Lịch Sử – Địa Lý – Tôn… và được in với hình thức Bìa Mềm.

Quyển sách Thiết Lập Tịnh Độ được nhà xuất bản NXB Hà Nội phát hành
2020 .

Bạn đang xem: Thiết Lập Tịnh Độ PDF

Thông tin về sách

Tác giả Thích Nhất Hạnh
Nhà xuất bản NXB Hà Nội
Ngày xuất bản 2020
Số trang 216
Loại bìa Bìa Mềm
Trọng lượng 200 gram
Người dịch

Download ebook Thiết Lập Tịnh Độ PDF

Thiết Lập Tịnh Độ

Tải sách Thiết Lập Tịnh Độ PDF ngay tại đây

Review sách Thiết Lập Tịnh Độ

Hình ảnh bìa sách Thiết Lập Tịnh Độ

image

image

Đang cập nhật…

Nội dung sách Thiết Lập Tịnh Độ

Kinh A Di Đà là một kinh Đại thừa, thuộc về nền Phật giáo Phát triển. Đạo Bụt giống như một cây đại thọ và cũng là một thực tại sinh động. Bất kỳ một cái gì đang sống cũng phải lớn lên. Một cây đang sống thì ngày nào cũng cho thêm cành, lá; cành dài ra thêm, lá mọc nhiều thêm. Có cành mới, lá mới, hoa mới và trái mới thì cây đạo Bụt mới là một thực tại linh động, một cái gì đang sống. Vì vậy, mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm, đạo Bụt phải phát triển thêm. Đạo Bụt Đại thừa là những hoa trái phát triển từ cội nguồn Phật giáo Nguyên thuỷ.

Mình không muốn đạo Bụt là một cái xác khô nằm trong viện bảo tàng mà là một thực tại sống động, mỗi ngày đều có thêm sức sống. Và vì vậy, mình phải chấp nhận rằng cây Phật giáo mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm phải có thêm cành mới, lá mới. Đạo Bụt phát triển không ngừng nhưng vẫn là đạo Bụt như thường.

Kinh A Di Đà hiện giờ đang được đọc tụng ở khắp các chùa, dù là chùa Thiền tông, vì kinh A Di Đà trình bày một giáo lý rất dễ thực tập. Những người không có căn trí lớn, những người không đủ Niệm, Định, Tuệ cũng có thể thực tập được kinh A Di Đà. Nói như vậy không có nghĩa là những người có căn trí lớn thì không thực tập được. Tại vì kinh A Di Đà có thể được hiểu rất sâu, cũng có thể được hiểu rất cạn. Người hiểu sâu cũng có thể thực tập, người hiểu cạn cũng có thể thực tập. Vì vậy chúng ta phải học kinh A Di Đà bằng một nhận thức hết sức cởi mở, bởi vì kinh A Di Đà là một giáo pháp có tính cách phổ biến. Người căn trí lớn thực tập cũng được mà người căn trí nhỏ hẹp thực tập cũng được.

Khi người có căn trí lớn niệm “Nam mô A Di Đà Phật” hay là “Nam mô Bụt A Di Đà” thì sở kiến và sở đắc rất lớn lao. Khi người có căn trí nhỏ hẹp niệm “Nam mô A Di Đà Phật” thì tuy người ấy cũng có sở kiến và sở đắc nhưng có thể sở kiến và sở đắc ấy nhỏ bé hơn. Niệm Bụt, ta có thể đạt tới Niệm, Định và Tuệ rất cao. Ta cũng có thể niệm Bụt mặc dù năng lượng Niệm, Định và Tuệ chưa hùng hậu. Hiệu quả của câu niệm Bụt lớn hay nhỏ là do cách hành trì của chúng ta. Hiệu quả lớn hay nhỏ là do Niệm và Định vững chãi nhiều hay ít.

Mục lục:

Bụt tại mười phương

Vài chi tiết về kinh A Di Đà

Tịnh nhiễm do tâm

Khổ vui tương tức

Diệu dụng pháp thân

Tích môn và bản môn

Đạo tràng lý tưởng

Gió chim thuyết pháp

Tạo lập Tịnh Độ

Nắm lấy danh hiệu

Đã về đã tới

Hoa sen chín phẩm

Thiền tịnh không hai

Gạn đục khơi trong

Ba nguồn năng lượng

Kinh A Di Đà

Trích đoạn sách:

Vài chi tiết về kinh A Di Đà

Trước khi đi vào kinh A Di Đà, chúng ta phải biết một vài chi tiết.

Thứ nhất, trong đạo Bụt Nguyên thuỷ, phương pháp Niệm Bụt đã là một phương pháp rất quan trọng. Niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí và niệm Thiên đều là những phương pháp thực tập có ngay trong thời Bụt tại thế. Phương pháp này được gọi là Tùy niệm và ngay trong thời Bụt tại thế đã có nhiều Phật tử thực tập niệm Bụt. Đức Thế Tôn có vững chãi, có thảnh thơi, có từ bi, có hỷ xả và mỗi khi nhớ tới Đức Thế Tôn thì tự nhiên mình thấy trong người khỏe, có được tính vững chãi, tính thảnh thơi của Đức Thế Tôn. Cho nên thời bấy giờ có nhiều người niệm Bụt. Người ta thường chắp tay và đọc: “Namo tassa bhagavato arahato sammà sambuddhassa” (Kính lạy Đức Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, bậc Chánh Biến Tri). Bhagavato: Thế Tôn, Arahat: Ứng Cúng, và Chánh Biến Tri là Sammà Sambuddhassa. Và sau đó, người ta tụng mười danh hiệu của Đức Thế Tôn: ‘‘Đức Như Lai là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Bụt, Thế Tôn”. (Trong quyển Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000, quý vị sẽ thấy có bài “Xưng Tán Tam Bảo”, bên trái là tiếng Hán Việt và bên phải là tiếng Pali.)

Họ đọc mười danh hiệu của Đức Như Lai và họ hiểu được mười danh hiệu đó. Mỗi danh hiệu tượng trưng cho một đức tính, một năng lượng của Như Lai. Khi đọc lên các danh hiệu đó thì ta đã thấm được một ít năng lượng và thấy trong người có thêm vững chãi và thảnh thơi. Tiếng Pali: “Iti pi so Bhagavà: Araham, Sammà-sambuddho, Vijjà-carana-sampanno, Sugato, Lokavidu, Anuttaro purisà-damma-sàrathi, Satthadeva manussànam, Buddho, Bhagàvati”. Ngày xưa, người ta niệm Bụt như vậy để có sự vững chãi, thảnh thơi, an lạc. Người ta còn niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới… Vì thế, niệm Bụt là một pháp môn chính thống ở trong truyền thống Phật giáo ngay từ ban đầu. Theo nguyên tắc của pháp môn niệm Bụt thì trước hết hành giả phải nghĩ rằng Bụt là một thực tại ngoài mình. Ngài đang cư trú ở tu viện Kỳ Viên hay trên núi Thứu. Khi niệm Bụt như vậy, tự nhiên mình tiếp xúc được với sự thảnh thơi và vững chãi, với chất liệu Từ, Bi, Hỷ và Xả trong con người của mình. Khi ta bắt đầu thực tập niệm Bụt, thì Bụt là một thực tại ở ngoài, nhưng từ từ Bụt trở thành một thực tại vừa ở trong, vừa ở ngoài. Tại vì trong tâm thức của ta cũng có những hạt giống của vững chãi và thảnh thơi, của Từ, Bi, Hỷ, Xả, của Ứng Cúng, của Chánh Biến Tri, của Minh Hạnh Túc… như Bụt. Khi ta niệm Bụt như vậy, ta tiếp xúc được vừa với thực tại của Bụt ở ngoài và vừa với thực tại của Bụt ở trong tâm. Nếu ta giỏi thì ta nhận thức ra rất sớm rằng Bụt luôn luôn có mặt trong tâm ta. Nhờ đó nên khi Đức Thế Tôn qua đời, ta không còn than khóc nữa. Ta biết rằng Bụt luôn luôn ở trong ta. Ngài không bao giờ mất. Nguyên tắc chỉ đơn giản như vậy thôi.

Đối với người mới thực tập niệm Bụt thì Bụt là một thực tại ở bên ngoài ta. Nhưng nếu ta đã thực tập sâu sắc thì Bụt sẽ trở thành một thực tại trong tự tâm. Vì vậy, dù Bụt ở trong Tịnh Độ hay Bụt ở ngoài Tịnh Độ thì Ngài vẫn luôn có mặt trong tâm ta, và khi đó, tâm ta chính là Tịnh Độ. Các thầy sau này đã nói rằng Bụt A Di Đà có mặt trong tâm mình và Tịnh Độ cũng có mặt ngay ở trong tâm mình. Đó gọi là “Duy tâm Tịnh Độ”. Ý niệm Tịnh Độ là một thực tại ở ngoài, nằm về phương Tây chẳng qua chỉ là ý niệm ban đầu. Nếu thực tập giỏi thì ta sẽ thấy sâu hơn rằng Bụt A Di Đà và cõi Tịnh Độ không phải chỉ nằm ở phương Tây mà còn nằm ở trong tâm mình và ở cả mọi phương. Như vậy, cả người thực tập giỏi lẫn người thực tập chưa giỏi đều đạt tới kết quả, nhưng đối với người tu tập giỏi thì kết quả rất lớn, còn người tu tập chưa giỏi thì kết quả vừa vừa.

Ba nguồn năng lượng

Chúng ta đi tới cõi Tịnh Độ và thiết lập cõi Tịnh Độ bằng cách nào? Muốn đi tới cõi Tịnh Độ hay thiết lập cõi Tịnh Độ của Tăng thân, chúng ta phải hội đủ ba yếu tố hay ba nguồn năng lượng.

Nguồn năng lượng thứ nhất là niềm tin. Ta tin tưởng rằng khổ đau của ta có thể được chuyển hóa bằng những con đường thoát ly sinh tử. Tịnh Độ là một trong những con đường ấy. Niềm tin này hoàn toàn không phải là những ý niệm căn cứ trên những suy nghĩ vu vơ, mà được căn cứ trên nền tảng của lý trí và sự chiêm nghiệm của chính mình. Niềm tin đó gọi là chánh tín, chứ không phải là mê tín. Chúng ta đang ở trong một hoàn cảnh bi đát tuyệt vọng, nhiều hệ lụy và khổ đau, và cũng từ nơi chính ta, khởi dậy niềm tin và ý chí muốn thoát ly những hệ lụy khổ đau ấy. Do đó mà niềm tin Tịnh Độ bắt đầu có mặt ở nơi ta và ta bắt đầu đi tìm kiếm con đường xây dựng Tịnh Độ hay con đường xây dựng Tăng thân để nương náu, vui sống, tin tưởng và thực tập.

Nguồn năng lượng thứ hai là bản nguyện. Bất cứ một bậc đại nhân hay một vị cao tăng nào cũng đều có bản nguyện trong sự tu tập. Và do có bản nguyện, các Ngài mới thiết lập được một cõi Tịnh Độ hay một Tăng thân để cùng nhau nương tựa và tu tập.

Chư Bụt và Bồ Tát cũng vậy, vị nào cũng đều có đại nguyện muốn thiết lập một cõi Tịnh Độ hay một Tăng thân để tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự tu tập. Tăng thân cũng có khi còn gọi là Tịnh Độ. Đã là Tăng thân, thì dù Tăng thân lớn hay nhỏ cũng đều có những chất liệu như nhau. Đã là Tịnh Độ thì dù cõi Tịnh Độ lớn hay cõi Tịnh Độ nhỏ cũng đều phải có những chất liệu như nhau, đó là niềm tin, bản nguyện và sự thực tập.

Bản nguyện nào cũng được tạo ra từ hai chất liệu. Chất liệu thứ nhất là ‘‘buông bỏ’’. Buông bỏ hệ lụy khổ đau. Buông bỏ mọi sự vẩn đục trong đời sống. Và chất liệu thứ hai của bản nguyện là ‘‘hân thích’’. Hân thích là mong muốn đi tới sự an lạc, với hạnh phúc, với năm chất liệu thanh trong của Tịnh Độ.

Nguồn năng lượng thứ ba là sự thực hành. Thực hành Tịnh Độ tức là biến niềm tin và bản nguyện Tịnh Độ trở thành hiện thực trong đời sống hàng ngày, bằng cách niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, nghĩa là luôn luôn nuôi dưỡng chánh niệm trong từng giây từng phút, để các vọng tâm không có điều kiện sinh khởi. Mỗi khi thực hành đời sống Tịnh Độ, đạt tới nhất tâm bất loạn, thì Tịnh Độ hiện tiền. Bấy giờ dầu ta không cầu sinh Tịnh Độ mà Tịnh Độ vẫn hiện bày trong đời sống của ta. Tịnh Độ chỉ là sự chuyển hóa năm thuộc tính vẩn đục của Ta Bà thành năm chất thanh trong của Tịnh Độ. Mỗi ngày, trong ta, chất vẩn đục được gạn lọc bao nhiêu, thì chất liệu Tịnh Độ trong ta được lưu xuất bấy nhiêu. Do đó, mỗi tiếng niệm Bụt, mỗi tiếng niệm Pháp, mỗi tiếng niệm Tăng đều có công năng tạo ra nguồn năng lượng hóa giải những yếu tố vẩn đục trong ta, tháo gỡ những hệ lụy khổ đau trong ta, đưa ta đi tới với tự do, với hạnh phúc, với an lạc. Hay nói cách khác, mỗi tiếng niệm Bụt của ta là nguồn năng lượng đưa ta đi tới với Tịnh Độ và với Tăng thân. Bởi vậy, Tín, Nguyện và Hạnh là ba yếu tố căn bản để dựng nên Tịnh Độ, nơi nương náu cho ta và cho biết bao nhiêu kẻ khác.

Mua sách Thiết Lập Tịnh Độ ở đâu

Bạn có thể mua sách Thiết Lập Tịnh Độ tại đây với giá

129.000 đ
(Cập nhật ngày 24/11/2024 )

Tìm kiếm liên quan

Thiết Lập Tịnh Độ PDF

Thiết Lập Tịnh Độ MOBI

Thiết Lập Tịnh Độ Thích Nhất Hạnh ebook

Thiết Lập Tịnh Độ EPUB

Thiết Lập Tịnh Độ full

Tìm hiểu thêm
Lịch sử – Địa lý – Tôn giáo …
Thích Nhất Hạnh
Báo chí Hà Nội

Năm 2020

216

bìa mềm

200

“Kinh A Di Đà” là một bộ kinh Phật giáo Đại thừa, thuộc Phật giáo phát triển. Đạo Phật giống như một cây trường sinh và một thực tại sống động. Bất cứ điều gì có sự sống đều phải phát triển. Cây sống ngày nào cũng mọc thêm cành và lá, cành dài ra thì lá cũng nhiều hơn. Cành mới, lá mới, hoa mới, quả mới, cây mới của đạo Phật là một thực tại sống, một lẽ sống. Vì vậy hàng ngày, hàng tháng, hàng năm đạo Phật càng phải phát triển. Phật giáo Đại thừa là thành quả của cội nguồn của Phật giáo Nguyên thủy.

Tôi không muốn Phật giáo là một cái xác nằm trong viện bảo tàng, mà là một thực tại sống động với nhiều sức sống hơn mỗi ngày. Vì vậy, chúng ta phải chấp nhận rằng cây Phật thủ phải ra cành, ra lá mới theo từng ngày, từng tháng, từng năm. Đạo Phật đang phát triển, nhưng nó vẫn giống như một đạo Phật mà nó đã luôn luôn tồn tại.

Tất cả các chùa hiện nay đều niệm A Di Đà, kể cả các chùa Thiền, bởi vì A Di Đà là một giáo lý dễ thực hành. Người chưa có trí tuệ lớn, chưa có đủ chánh niệm, định lực và trí tuệ, cũng có thể thực hành Kinh A Di Đà. Điều này không có nghĩa là những người có chỉ số IQ cao không thể luyện tập. Bởi vì “Kinh A Di Đà” có thể hiểu rất sâu, nhưng cũng rất nông. Người biết sâu cũng tu được, kẻ biết nông cũng tu được. Vì vậy chúng ta phải học Kinh A Di Đà với một tâm hồn thật rộng mở, vì Kinh A Di Đà là giáo lý phổ thông. Ai khôn thì tu, ai yếu thì tu.

Người có trí tuệ lớn niệm “Nam Mô A Di Đà” hoặc “Nam Mô A Di Đà”, họ có trí tuệ sáng suốt và giàu có. Người tâm niệm hẹp hòi niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” thì có cái nhìn sâu sắc, nhưng có thể có cái nhìn sâu sắc hơn. Bằng cách tụng danh hiệu Đức Phật, chúng ta có thể đạt được chánh niệm, định lực và trí tuệ rất cao. Ngay cả khi năng lượng của chánh niệm, định lực và trí tuệ không mạnh, chúng ta có thể niệm Phật. Hiệu quả của việc tụng kinh lớn hay nhỏ tùy thuộc vào cách chúng ta thực hành. Hiệu quả nhiều hay ít là do chánh niệm và sự tập trung ít nhiều đã ổn định.

Mục lục:

Phật mười phương

Một số chi tiết của Kinh A Di Đà

sự thanh tịnh của tâm trí

đau khổ và hạnh phúc

Công dụng diệu kỳ của Pháp thân

Tích lũy các ngành học và ngành học

nơi nghỉ dưỡng lý tưởng

bài giảng chim gió

tạo ra cõi tịnh độ

lấy tiêu đề

ở đây ở đây

Lotus Nine

Thiền không phải là hai

Trang trí và đục lỗ trên biển

ba nguồn năng lượng

Kinh A Di Đà

Trích sách:

Một số chi tiết của Kinh A Di Đà

Trước khi vào Kinh A Di Đà, chúng ta phải biết một số chi tiết.

Trước hết, trong Phật giáo Nam tông, phương pháp niệm Phật là một phương pháp rất quan trọng. Niệm Phật, Pháp, Tăng, Giới, Bố, và Trời đều là những pháp môn mà Đức Phật đã có khi còn tại thế. Phương pháp này được gọi là Duyên khởi, và ngay cả khi Đức Phật còn sống, nhiều Phật tử đã tụng kinh niệm Phật. Bậc được tôn vinh trên thế giới có sự ổn định, dễ chịu, từ bi và vui vẻ. Mỗi khi nghĩ đến Đấng được Thế giới tôn vinh, tôi tự nhiên thấy rằng ở một người khỏe mạnh, chúng ta có sự ổn định và thanh thản của Đức Phật. Cho nên lúc đó có rất nhiều người đang tụng kinh niệm Phật. Mọi người thường chắp tay và đọc: “Namo tassa bhagavato arahato sammám sambuddhassa” (Đảnh lễ Đức Thế Tôn, Vị Trọng tài, Toàn giác). Bhagavato: Đức Thế Tôn, A-la-hán: Cúng dường và Chánh kiến ​​là Sammā Sambuddhassa. Sau đó, mọi người niệm Phật số thứ mười: “Như Lai là bậc mộ đạo, vô minh vô thượng, trí tuệ vô thượng, nổi tiếng, nổi tiếng, thế gian, và thế gian.” (Trong Nhất Chân Chân Môn năm 2000, quý vị sẽ thấy bài “Ca ngợi Tam bảo”, bên trái có Hán-Việt và bên phải là tiếng Pali.)

Họ đọc mười danh hiệu Như Lai và họ đã hiểu. Mỗi danh hiệu thể hiện một phẩm hạnh, một nghị lực của Như Lai. Khi đọc những tựa sách này, chúng ta hấp thụ được một ít năng lượng và cảm thấy cơ thể ổn định, thư thái hơn. Tiếng Pali: “Iti pi so Bhaga và: Araham, Sammà-sambuddho, Vijjà-carana-sampanno, Sugato, Lokavidu, Anuttaro purisà-damma-sàrathi, Satthadeva manussânam, Buddho, Bhagàvati”. Trước đây, người ta niệm Phật như vậy để cầu sự ổn định, thư thái, tĩnh tâm. Người ta cũng tụng Pháp, Tăng, Giới… Vì vậy, niệm Phật đã là một pháp môn chính thống trong truyền thống Phật giáo ngay từ thuở sơ khai. Theo nguyên tắc thực hành niệm danh hiệu của Đức Phật, trước tiên hành giả phải nghĩ rằng Đức Phật là một hiện hữu có thật không phải là mình. Ngài sống ở Kỳ Viên Tu Viện hay Đồi Thứu. Khi chúng ta niệm Phật theo cách này, chúng ta tự nhiên tiếp xúc với sự thanh thản và tĩnh lặng, với các chất của tình yêu, nỗi buồn, niềm vui và sự bình an trong sự hiện hữu của chúng ta. Khi chúng ta bắt đầu niệm Phật, Đức Phật là thực tại bên ngoài, nhưng dần dần, Đức Phật trở thành thực tại bên trong và bên ngoài. Bởi vì trong tâm của chúng ta cũng có những hạt giống của sự ổn định và thư thái, tình yêu thương, lòng từ bi, hỷ xả, bình đẳng, sùng mộ, chánh kiến, trí tuệ và hạnh phúc… giống như Đức Phật vậy. Khi chúng ta niệm Phật theo cách này, chúng ta tiếp xúc với cả Pháp bên ngoài và Pháp bên trong. Nếu chúng ta khỏe, chúng ta sớm nhận ra rằng Đức Phật luôn ở trong tâm chúng ta. Vì thế, chúng ta không còn thương tiếc khi Đức Thế Tôn qua đời. Chúng ta biết rằng Đức Phật luôn ở trong trái tim của chúng ta. Anh ấy chưa bao giờ bị lạc. Nguyên tắc là đơn giản.

Đối với những người không quen tụng kinh niệm Phật, Đức Phật là một thực tại bên ngoài chúng ta. Nhưng nếu chúng ta thực hành sâu sắc, Đức Phật sẽ trở thành hiện thực trong chính trái tim của chúng ta. Vì vậy, dù Phật ở trong Tịnh độ hay Phật ở ngoài Tịnh độ, Ngài luôn ở trong tâm chúng ta, thì tâm của chúng ta chính là Tịnh độ. Về sau, sư phụ nói trong lòng chúng ta có Phật A Di Đà, trong lòng cũng có Tịnh độ. Nó được gọi là “Chủ nghĩa Duy tâm Tịnh độ”. Tịnh độ là một thực tại bên ngoài, tọa lạc ở phương Tây, và chỉ là một khái niệm sơ khai. Nếu chúng ta tu tốt, chúng ta sẽ thấy sâu xa hơn rằng A Di Đà và cõi Cực Lạc không chỉ ở Tây Phương, mà còn ở trong tâm của chúng ta và ở tất cả các phương. Vì vậy, có những kết quả đối với những học viên tốt và những học viên không quá tốt, nhưng đối với một học viên tốt thì kết quả là rất lớn và đối với một học viên kém thì kết quả là tầm thường.

ba nguồn năng lượng

Làm thế nào để chúng ta đi đến Tịnh độ và lập Tịnh độ? Muốn đến Cực Lạc hay thành lập Tịnh độ của Tăng đoàn, chúng ta phải thỏa mãn ba nguyên nhân hay ba năng lượng.

Nguồn năng lượng đầu tiên là niềm tin. Tôi tin rằng nỗi đau của tôi có thể được biến đổi bằng một con đường không có sự sống và cái chết. Tịnh độ tông là một trong số đó. Niềm tin này hoàn toàn không dựa trên suy nghĩ ảo tưởng mà dựa trên lý trí và sự chiêm nghiệm của bản thân. Niềm tin này được gọi là niềm tin đúng đắn, không phải là mê tín. Chúng ta đang ở trong hoàn cảnh bi đát và vô vọng, với bao hệ lụy đau thương, cũng chính từ chính chúng ta, hãy khơi dậy niềm tin và ý chí để thoát khỏi những hậu quả đau lòng này. Vì vậy, niềm tin về Tịnh độ bắt đầu hiện hữu trong chúng ta, và chúng ta bắt đầu tìm cách xây dựng một cõi Tịnh độ hay cách xây dựng một Tăng đoàn để quy y, vui sống, tin tưởng và tu tập.

Nguồn năng lượng thứ hai là những lời thề. Bất kỳ vĩ nhân hay tu sĩ nào cũng có nguyện lực tu hành. Và do bản nguyện ban đầu, có thể thành lập tịnh độ hay tăng đoàn, cùng nương tựa tu hành.

Tất cả chư Phật, chư Bồ tát cũng vậy, mỗi vị đều có đại nguyện thành lập tịnh thất hay xuất gia để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tu luyện. Tăng đoàn đôi khi còn được gọi là Tịnh độ. Là một tăng đoàn, chất liệu của tăng đoàn là như nhau bất kể kích thước của nó. Đã là tịnh độ thì dù là tịnh độ lớn hay tịnh độ nhỏ đều phải có những thành phần giống nhau, đó là niềm tin, bản nguyện ban đầu và sự tu tập.

Bất kỳ lời thề nào cũng được làm bằng hai chất liệu. Yếu tố đầu tiên là “buông bỏ”. Để lại những hậu quả đau lòng. Hãy buông bỏ mọi tạp chất trong cuộc sống của bạn. Thành phần thứ hai của lời thề là “hạnh phúc”. Khoái lạc là mong muốn đi đến an lạc, hạnh phúc, đến năm chất thanh tịnh của cõi Tịnh độ.

Nguồn năng lượng thứ ba là luyện tập. Thực hành Tịnh độ là thực hiện niềm tin và nguyện Tịnh độ trong cuộc sống hàng ngày, niệm Phật, Pháp và Tăng. Bất cứ khi nào chúng ta thực hành cuộc sống Tịnh độ và đạt được nhất tâm mà không bị can nhiễu, thì cõi Tịnh độ sẽ xuất hiện. Lúc đó, tuy chúng ta không cầu vãng sanh về Cực Lạc, nhưng cõi Tịnh độ vẫn hiển hiện trong cuộc sống của chúng ta. Cõi Tịnh Độ là sự chuyển hóa năm bản tính bất tịnh của Saha thành năm bản tính thanh tịnh của cõi Tịnh độ. Mỗi ngày, trong tôi được thanh lọc bao nhiêu vẩn đục, bao nhiêu chất tịnh trong tôi được giải phóng. Vì vậy, mỗi tiếng tụng kinh, mỗi tiếng Pháp, mỗi tiếng Tăng đều có sức sinh ra một nguồn năng lượng có thể làm tan biến mây mù, tiêu trừ trái đắng, hướng chúng ta đến con đường đúng đắn. Cấp độ tiếp theo, với tự do, với hạnh phúc, với hòa bình. Nói cách khác, mỗi âm thanh chúng ta tụng kinh là một nguồn năng lượng hướng dẫn chúng ta hướng về Tịnh độ và Tăng đoàn. Vì vậy, Tín, Nguyện và Hành là ba yếu tố căn bản để thành lập Tịnh độ, là nơi nương tựa cho chúng ta và nhiều người khác.

xây dựng tịnh thất
hình ảnh
hình ảnh

đề nghị đặc biệt
129,000 vnđ

Tiếng Việt

Cập nhật lúc 1:36 - 30/09/2024
Sách cùng chủ đề

Comment