[Tải PDF] Nửa Vòng Trái Đất Uống Một Ly Trà PDF

Thuvienso.org – Cuốn sách Nửa Vòng Trái Đất Uống Một Ly Trà được viết bởi tác giả Di Li, bàn về chủ đề Văn học và được in với hình thức Bìa Mềm.

Quyển sách Nửa Vòng Trái Đất Uống Một Ly Trà được nhà xuất bản NXB Lao Động phát hành
2019 .

Bạn đang xem: Nửa Vòng Trái Đất Uống Một Ly Trà PDF

Thông tin về sách

Tác giả Di Li
Nhà xuất bản NXB Lao Động
Ngày xuất bản 2019
Số trang 326
Loại bìa Bìa Mềm
Trọng lượng 350 gram
Người dịch

Download ebook Nửa Vòng Trái Đất Uống Một Ly Trà PDF

Nửa Vòng Trái Đất Uống Một Ly Trà

Tải sách Nửa Vòng Trái Đất Uống Một Ly Trà PDF ngay tại đây

Review sách Nửa Vòng Trái Đất Uống Một Ly Trà

Hình ảnh bìa sách Nửa Vòng Trái Đất Uống Một Ly Trà

image

image

image

Đang cập nhật…

Nội dung sách Nửa Vòng Trái Đất Uống Một Ly Trà

“Chỉ cần qua dặm trang sách, Di Li đưa người ta từ Việt sang Nhật, từ Osaka tới Kobe, từ ngoài mưa vào trong bếp, cho người ta biết lịch sử ăn thịt của người Nhật, và khoa học hóa tuổi thọ của họ, hầu thỏa mãn trí tò mò của người đọc… Cuối cùng, Di Li mới kể-tả việc ăn thịt bằng mấy giác quan cùng với những kiến thức mờ ảo hư-thực kia, mà vẫn không quên báo giá. Đọc về ẩm thực kiểu này còn thấy “ngon” hơn là đi ăn thật. Đúng là văn du ký của một người chuyên viết chuyện trinh thám!” – Nhờ thơ Đỗ Trung Lai

“Di Li viết tinh tế, bài bản, sâu sắc và hài hước nữa, kể chuyện cứ như chơi. Cái món du ký ẩm thực ấy, nếu không hiểu biết rộng và sâu để mà liên tưởng, để mà so sánh món này món kia, xứ này xứ kia, người này người kia…như kiểu vừa nêm gia vị cho hợp khẩu lại vừa trình bày món ăn cho bắt mắt thị giác thì chỉ là tả lại một món ăn theo một cách rất thô. Nhưng Di Li đã biến nó thành những bữa tiệc tràn đầy ánh sáng và biểu cảm văn hóa, để trở thành một thiên đường lộng lẫy. Viết về cà ri Ấn Độ thì có phải là cà ri nữa đâu, mà đã vượt lên khỏi cà ri, là văn hóa, vượt lên cả văn hóa, nó là những bí ẩn chữa giải mã mà con người luôn thèm khát kiếm tìm” – Nhà thơ Văn Công Hùng

Nửa Vòng Trái Đất Uống Một Ly Trà – Cuốn sách du ký ẩm thực của tác giả Di Li. Với hơn 300 trang sách, Di Li đưa chúng ta chu du và thưởng thức ẩm thực từ vùng đất này đến vùng đất khác, khắp nơi thế giới. Bạn có thể tình cơ bắt gặp những chú bò Kobes hạnh phúc, đỉnh cao ẩm thực tối giản từ món Sushi của người Nhật, đến những món ăn mỹ vị Trung Hoa hay những món ăn từ Địa Trung Hải, Đại Tây Dương…Hơn cả một cuốn sách du ký hay ẩm thực đơn thuần, cuốn sách hai trong một này sẽ đưa bạn từ bất ngờ này đến những bất ngờ khác để rồi bạn phải tự hỏi “phải chăng là mình đã đi vòng quanh thế giới?”.

Trích sách:

Những chú bò hạnh phúc giữa thành phố Kobe

Chiều hôm trước tôi đã trải qua một bữa tối tẻ ngắt ở khu Dotonbori, vị trí được đánh dấu năm sao ở Osaka. Dotonbori có nhẽ là khu phố đi bộ sầm uất nhất vùng Kansai. Nó nổi tiếng bởi cây cầu gỗ bắc qua dòng sông lặng lờ. Người Nhật có truyền thống làm cầu gỗ, nên các lái buôn Nhật Bản sang đến Hội An định cư rồi ở lại đấy cũng xây một cây cầu gỗ nhỏ xinh cho du khách ngày nay qua lại. Lúc tôi vừa bước chân qua cầu thì trời đổ cơn mưa nặng hạt, mà tôi không biết rằng mấy ngày sau mưa sẽ muốn nuốt trôi cả thành phố này lẫn Kyoto và Hiroshima. Tôi đành trú tạm dưới chiếc dù trước cửa một nhà hàng và lơ đãng ngó những du khách đang đi thuyền trên sông. Trời mưa trắng xóa lòng nước, và con thuyền lừ đừ chở một đoàn lụp xụp áo mưa đang xuôi dòng, trông như âm binh địa phủ. Dotonbori cũng

là chốn vô vị, ngoài các nhà hàng và Zara, H&M, Mango…giống như một đại thương xá thì không còn gì hấp dẫn. Cơn mưa chẳng có vẻ gì sẽ ngớt và tôi xuống hầm gọi một bát mì Ramen thịt bò giá 1000 yên với lèo tèo vài vụn thịt bò, trong khi sợi mì và nước dùng nhạt nhẽo y như quang cảnh dưới lòng sông. Quán mì Ramen do chủ Trung Quốc sở hữu, hệt hồi đầu năm, tôi ăn món gà xào cay với kim chi trong một nhà hàng của người Hoa ở Gyeongju, Hàn Quốc. Vị nguyên bản của nó đã chẳng lấy gì làm ngon, qua tay đầu bếp Tàu và cách phục vụ của người Tàu còn hành khổ thực khách hơn. Từ bữa mì hôm ấy, cơn thèm thịt bò của tôi bắt đầu trỗi dậy, dù ở nhà tôi là dân ăn kiêng. Người Nhật tuy bị các nhà cải cách ẩm thực phàn nàn rằng ngày càng ngốn nhiều thịt với vô số thống kê cho thấy chỉ số nhập khẩu thịt của Nhật đang tịnh tiến chóng mặt, tuy nhiên đối với người Mỹ thì Nhật, Hàn có vẻ vẫn là những quốc gia “ăn chay”. Lý do ăn ít thịt ở Nhật trở nên dễ lý giải hơn khi tôi điều tra về “văn hóa thịt” của Hàn Quốc (mà tôi cho rằng việc người Hàn ưa ăn thịt chó cũng xuất phát từ lý do thiếu gia súc một cách trầm trọng trong quá khứ, nên họ mới đành chén luôn cả chó nhà). Nhật Bản đã trải qua một đêm trường trung cổ đằng đẵng không được ăn thịt. Trong suốt 1200 năm, kể từ năm 675 sau Công nguyên, Thiên hoàng Tenmu đã ban bố lệnh cấm giết mổ gia súc trên toàn cõi Nhật Bản, trong danh mục cấm bao gồm cả ngựa, chó và khỉ. Các tài liệu lịch sử đều cho rằng Nhật Bản là quốc gia theo Phật giáo và Thần đạo, Thiên hoàng Tenmu lại đặc biệt sùng đạo nên mới bắt dân chúng kiêng thịt. Nhưng tôi lại tin vào những nghiên cứu có lý hơn, ấy là tới thế kỷ thứ VII thì Nhật Bản thiếu đất canh tác trầm trọng tới mức ngay cả rừng cũng bị đốn hạ để làm cánh đồng và nơi chăn thả gia súc. Mà quốc đảo này lúc nào chả thiếu đất. Những hòn đảo đã chật hẹp lại chỉ toàn rừng với núi. Chẳng cần phải chờ đến thế kỷ 21, khi dân số Nhật Bản đã tăng lên hơn 127 triệu người, mà từ thời trung cổ, Nhật còn thiếu cả đất cho gia súc. Có lẽ bí quá mà Tenmu mới cực chẳng đã phải đưa ra quyết định này. Và lệnh cấm thịt trở nên hà khắc hơn cả vào thời kỳ Edo (1603-1867), tới mức người nào bị phát hiện ra vừa ăn thịt sẽ bị cấm túc ăn chay trong vòng 100 ngày. Người nào cả gan ngồi chung bàn với kẻ tội đồ đã từng phạm tội… ăn thịt cũng sẽ bị coi như tòng phạm, cấm túc 21 ngày. Người vô duyên hớ hênh không biết mà ngồi nhậu nhẹt với kẻ từng có bạn phạm tội ăn thịt thì bị phạt 7 ngày. Tất cả nhằm mục đích cô lập kẻ ăn thịt xấu xa. Con dân cả nước vì thế hầu như ăn chay, ngoài cá tôm ngoài biển khơi thì nhất định không được chạm tới thịt. Duy nhất có lính triều đình trong thời kỳ nghĩa vụ quân sự sẽ được phép ăn thịt để lấy sức chiến đấu. Nhưng đến khi giải ngũ về làm dân thì họ phải theo phép vua ăn chay trở lại. Nhiều giai thoại kể về những anh lính cuồng thịt (chắc cũng cuồng đến như chúng tôi mấy ngày trên đất Nhật, Hàn là cùng), là đã quen được nếm thịt trong quân ngũ nên khi trở lại ăn cơm “không người lái” thì thèm thịt không chịu nổi, thành thử lính giải ngũ của Thiên hoàng thi thoảng lại lén lút giết trộm một con vật để đánh chén, bất chấp hôm sau bị bêu ra trước công luận cũng đành.

Những món ăn của nàng Dae Jang Gum

Hồi trước, tôi vốn chết mê chết mệt những món ăn của nàng Dae Jang Gum. Các bữa tiệc hoàng cung do nàng Dae, một siêu đầu bếp, trình diễn thật ngoạn mục, nhìn chỉ muốn chui vào màn ảnh để ăn cùng. Nên bữa ăn sáng đầu tiên ở Seoul, tôi lấy làm háo hức lắm. Người ta cho chúng tôi ăn “lẩu bò”. Sáng mùa thu giá lạnh, vừa lò dò xuống sân bay, lại trong lúc bụng đói, chân run, một bữa lẩu bò trong căn phòng ấm áp thì còn gì bằng. Các quán ăn của người Hàn thường ngồi phản, trước mặt là một chiếc bàn vuông bằng gỗ, nom rất ấm cúng. Đầu tiên người ta bưng cho chúng tôi mỗi bàn một bát Kim chi. Không giống Kim chi chua ngọt dễ chịu như trong các quán cơm ta, Kim chi Hàn Quốc cay và mặn. Mãi sau tôi mới biết cái vị mặn đến váng đầu ấy là để dùng vào việc gì. Kế đó, mỗi người được phục vụ một bát “lẩu bò”, trông giống bát phở, chứ không phải là nồi lẩu như ai cũng nghĩ thế. Thôi không phải lẩu thì phở cũng được, đã đói lắm rồi. Chúng tôi vội vã nhấp một chút nước dùng, song ai nấy đều nhăn nhó mặt mày. Nước dùng có vị ngọt lịm của cốt xương và thịt nhưng nhạt hoét, nó thiếu muối, hay nói đúng hơn là không có chút muối nào. Cả đoàn hơn hai chục con người nháo nhác đi tìm gia vị. Anh So, một nhân viên của công ty đối tác, vội giải thích rằngchúng tôi phải tự pha chế muối, lẩu bò ở Hàn Quốc là thế, mà tốt nhất là cho Kim chi vào ăn kèm. Chúng tôi loay hoay tự pha chế, rồi cuối cùng cũng xong. Nước dùng đã rất ngon, có những lát thịt bò giống thịt bò chín trong phở, cũng ngon, song bên dưới là mỳ chứ không phải bánh phở. Tuy nhiên khi ăn được vài miếng lại thấy có vài hạt cơm bên dưới. Sao thế này? Khuấy lên thấy lõng bõng như cháo. Thôi thì cháo, thôi thì cơm cũng tốt. Ở nhà cơm, cháo, mỳ vẫn chẳng phải là những món quen thuộc hay sao. Sau khi ăn xong (nghĩa là cố lắm chỉ hết một nửa), một người băn khoăn nhìn vào bát “lẩu bò” bảo “Đây là mỳ”. Người khác phản đối “Không phải mỳ, là cháo”. Tức thì một làn sóng tranh cãi nổi lên. Tất cả nhao nhao chia làm hai phe: phe cháo và phe mỳ. Cuối cùng một người kết luận “Không phải cháo, không phải mỳ, mà là mỳ – cháo”. Đúng rồi, mỳ cháo, chúng tôi thở dài, vì nó có cả mỳ lẫn cháo. Sau rốt, khi cả đoàn đã yên vị trên xe, anh So hỏi to “Quý vị ăn lẩu bò có thấy ngon không?” – “Ngon lắm, cảm ơn anh So”, tất cả chúng tôi đồng thanh.

Cá tuyết Đại Tây Dương

Những món ăn nổi tiếng của Bồ Đào Nha chủ yếu là hải sản. Chuyến đi này của tôi, vì thế có thể được đặt tên là “tour hải sản”. Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Maroc chung một nguồn đánh bắt từ Đại Tây Dương. Tôm cá ngoài sân nhà ta thì ta xài. Dường như dân cư ở ba quốc gia này chỉ việc khom lưng mà vợt cua cá đặt lên mâm. Khắp thành phố Lisbon, đứng từ ngõ ngách nào cũng nhìn ra lấp lánh màu xanh của biển cả. Những dân tộc không có nổi một đường bờ biển như Séc, Áo, Hungary, Slovakia, Iraq, Congo, Zambia, Boswana và cả Lào thì hẳn phải giận lắm ông Trời mà ngồi đó ghen tị. Quốc gia không có biển cũng hiếm. Những cư dân đầu tiên của Trái đất luôn phải bám lấy nước mà sống. Và tổ tiên của người Bồ Đào Nha bây giờ, mà các nhà khảo cổ học tin rằng họ từng vượt biển vào bán đảo từ Bắc Phi, đã vô cùng khôn ngoan khi chọn một vùng đất nhỏ bé mà phân nửa chu vi là đường bờ biển.

Đã đến Lisbon là phải ăn hải sản. Từ quảng trường Comercio đi dọc bãi biển sẽ thấy bạt ngàn nhà hàng với các lan can bằng sắt tuyệt đẹp và tôi đã nhìn thấy một thực đơn rất nhiều hải sản mà giá cả cũng không tới nỗi làm khách hoảng hồn. Một trong những hải sản nổi tiếng nhất của Bồ Đào Nha là cá tuyết, song tôi thấy nó nhạt nhẽo và không thú vị bằng một đĩa salad bạch tuộc. Vùng biển Đại Tây Dương cũng rất nhiều bạch tuộc. Chúng tươi rói và thơm giòn khi có mặt trên đĩa. Chẳng viễn khách nào từ chối nổi một đĩa bạch tuộc hấp dẫn nhường ấy. Khác với bạch tuộc Pulpo a la Gallega ở Madrid chỉ có dầu ô liu, ớt bột và muối hạt, salad bạch tuộc Bồ Đào Nha còn được trộn dầu dấm, hành tây, mùi tây, tỏi tươi và thêm ít quả chua từa tựa móc mật. Này nhá, nếu bạn được ngồi trên chiếc lan can đu mình ra Đại Tây Dương xanh thẳm với những con thuyền neo đậu đàng xa mà thưởng thức salad bạch tuộc béo ngậy, món ăn nằm trong danh mục 7 ẩm thực không thể bỏ qua khi đến Lisbon, thì bạn sẽ chẳng bao giờ còn muốn chê bai thành phố của những nhà hàng hải giỏi nhất thế giới này (rất nhiều người đã chê Lisbon là tẻ nhạt và vô vị), và bạn sẽ thấy đời chỉ sướng đến thế là cùng. Rằng ăn cũng là một thứ khoái lạc, ăn bạch tuộc còn mang lại khoái cảm nhiều hơn nữa, và ăn bạch tuộc giữa xanh ngắt của trời mây nước thì e rằng nỗi cực khoái của con người sẽ thăng hoa gấp vạn lần.

Mua sách Nửa Vòng Trái Đất Uống Một Ly Trà ở đâu

Bạn có thể mua sách Nửa Vòng Trái Đất Uống Một Ly Trà tại đây với giá

84.000 đ
(Cập nhật ngày [dt]/[mm]/[year] )

Tìm kiếm liên quan

Nửa Vòng Trái Đất Uống Một Ly Trà PDF

Nửa Vòng Trái Đất Uống Một Ly Trà MOBI

Nửa Vòng Trái Đất Uống Một Ly Trà Di Li ebook

Nửa Vòng Trái Đất Uống Một Ly Trà EPUB

Nửa Vòng Trái Đất Uống Một Ly Trà full

[su_spoiler title=”Tìm hiểu thêm” open=”no” style=”default” icon=”plus” anchor=”” anchor_in_url=”no” class=””]văn chương
Dilly
nhà xuất bản lao động

2019

326

bìa mềm

350

“Chỉ trong một dặm, Dilly đưa mọi người từ Việt Nam đến Nhật Bản, từ Osaka đến Kobe, từ trời mưa vào bếp, kể cho mọi người lịch sử của thịt Nhật Bản và khoa học hóa tuổi thọ của chúng.”, Để thỏa mãn sự tò mò của độc giả … Trong Cuối cùng, Di Li sử dụng các giác quan của mình để mô tả việc ăn thịt, cũng như một số kiến ​​thức mơ hồ và viển vông khác, và không quên báo giá. Đọc kiểu này thấy “ngon” hơn là đi ăn. Một cuốn nhật ký hành trình cho một nhà văn trinh thám! ”- cảm ơn Đỗ Trung Lai về bài thơ

“Lý Di viết thông minh, bài bản, sâu sắc và hài hước, kể chuyện như chơi. Tạp chí du lịch ẩm thực đó, nếu bạn không có hiểu biết rộng và sâu để liên tưởng, so sánh món này, nước này, nước này, người này. , Mọi người … như thể bạn chỉ nêm nếm theo ý thích của mình. Trình bày món ăn trước mặt bạn chỉ là một cách mô tả một món ăn rất thô thiển. Và Dili đã biến nó thành một tập hợp của sự sáng tạo và biểu cảm văn hóa, một A thiên đường lộng lẫy. Viết cà ri Ấn Độ không còn là cà ri nữa, mà vượt ra ngoài cà ri, văn hóa, vượt ra ngoài văn hóa, đó là mở khóa bí ẩn giải mã mà con người hằng mong mỏi tìm kiếm. – Nhà thơ Fan Conghong

Một nửa thế giới cho một tách trà – Cuốn sách du lịch ẩm thực của tác giả Li Di. Với hơn 300 trang, Dilly đưa chúng ta đi từ nơi này đến nơi khác để đi du lịch và thưởng thức ẩm thực, trên khắp thế giới. Bạn sẽ tình cờ gặp Kobe hạnh phúc, từ sushi Nhật Bản đến đỉnh cao của ẩm thực tối giản, từ Địa Trung Hải và Đại Tây Dương đến ẩm thực hoặc món ăn Trung Quốc … Không chỉ là một cuốn sách du lịch hoặc ẩm thực đơn thuần, 2 trong 1 này sẽ đưa bạn đi từ cái này đến cái kia ngạc nhiên, khiến bạn tự hỏi “Mình đã đi khắp thế giới chưa?”.

Từ cuốn sách:

Những chú bò hạnh phúc ở trung tâm thành phố Kobe

Chiều hôm trước, tôi có một bữa tối nhạt nhẽo tại Dotonbori, một điểm tham quan năm sao ở Osaka. Dotonbori có lẽ là phố đi bộ nhộn nhịp nhất ở vùng Kansai. Nơi đây nổi tiếng với những cây cầu gỗ bắc qua dòng sông hiền hòa. Người Nhật có truyền thống xây cầu gỗ nên các doanh nhân Nhật Bản đến Hội An lập nghiệp cũng đã xây dựng một cây cầu gỗ nhỏ xinh cho khách du lịch ngày nay. Vừa đi qua cầu trời bắt đầu mưa to, không biết mấy ngày nữa mưa lớn sẽ nhấn chìm toàn bộ thành phố Kyoto và Hiroshima. Tôi phải núp dưới một chiếc ô trước một nhà hàng, lơ đãng nhìn những du khách chèo thuyền trên sông. Trời mưa trắng xóa, nước trong như pha lê, thuyền kéo theo đống áo mưa xuôi dòng, như âm phủ.Dotonbori

Đó là một nơi vô vị, ngoại trừ các nhà hàng và Zara, H&M, Mango … giống như một trung tâm mua sắm không có gì hấp dẫn. Mưa dường như vẫn chưa tạnh, tôi xuống hầm gọi một tô ramen bò 1.000 yên với vài miếng thịt bò, mì và nước dùng nhạt nhẽo như lòng sông. Quán ramen do một ông chủ người Trung Quốc điều hành, chẳng khác gì ăn gà rán cay kim chi tại một nhà hàng Trung Quốc ở Gyeongju, Hàn Quốc dịp đầu năm. Nó không ngon ở dạng nguyên bản, và nó còn tra tấn thực khách nhiều hơn nữa qua bàn tay của các đầu bếp Trung Quốc và sự phục vụ của người Trung Quốc. Từ bữa mì đó, cơn thèm thịt bò của tôi bắt đầu trỗi dậy dù ở nhà tôi là người ăn kiêng. Trong khi người Nhật bị các nhà cải cách ẩm thực phàn nàn rằng họ đang ăn nhiều thịt hơn và nhiều thống kê cho thấy chỉ số nhập khẩu thịt của Nhật Bản đang tăng nhanh, thì Nhật Bản và Hàn Quốc vẫn có vẻ là những quốc gia “ăn chay” đối với người Mỹ. Lý do tại sao Nhật Bản ăn ít thịt trở nên dễ giải thích hơn khi tôi điều tra về “văn hóa thịt” của Hàn Quốc (Tôi nghĩ rằng người Hàn Quốc thích ăn thịt chó cũng là do tình trạng thiếu chăn nuôi trầm trọng). Quá khứ quan trọng nên họ cũng phải ăn thịt chó). Nhật Bản đã phải chịu đựng một đêm dài không có thịt ở thời trung cổ. Bắt đầu từ năm 675 sau Công nguyên, Thiên hoàng Tenmu đã cấm giết mổ gia súc, bao gồm ngựa, chó và khỉ, trên khắp Nhật Bản trong 1.200 năm. Các tài liệu lịch sử nói rằng Nhật Bản là một quốc gia theo đạo Phật và đạo Shinto, và Thiên hoàng Tenmu rất sùng đạo nên đã bắt mọi người phải kiêng ăn. Nhưng tôi tin vào những nghiên cứu hợp lý hơn, vào thế kỷ thứ 7, Nhật Bản đã thiếu đất canh tác đến nỗi rừng bị chặt phá để làm ruộng và chăn thả gia súc. Nhưng đảo quốc này luôn thiếu đất. Các đảo nhỏ hẹp, chỉ có rừng và núi. Không đợi đến thế kỷ 21, dân số Nhật Bản đã lên tới hơn 127 triệu người, mà ngay từ thời Trung cổ, Nhật Bản đã thiếu đất thậm chí là chăn nuôi. Có thể là một phép màu khi Xin Tianwu không phải đưa ra quyết định này. Trong thời kỳ Edo (1603-1867), lệnh cấm ăn thịt trở nên nghiêm trọng đến mức bất cứ ai bị bắt gặp ăn thịt sẽ bị cấm ăn chay trong 100 ngày. Ai dám chung bàn với kẻ phạm tội … Ăn thịt người cũng bị coi là phụ và bị tạm giam 21 ngày. Phạt bảy ngày nếu uống rượu với người có bạn đã phạm tội ăn thịt. Đó là tất cả về việc cô lập những kẻ ăn thịt người độc ác. Vì vậy, hầu như người dân Trung Quốc đều ăn chay, trừ tôm cá ở vùng biển khơi không được đụng đến thịt. Chỉ những binh lính triều đình trong thời gian tại ngũ mới được phép ăn thịt để tăng hiệu quả chiến đấu. Nhưng khi xuất ngũ, họ phải nhịn ăn trở lại với sự cho phép của nhà vua. Rất nhiều giai thoại về những người lính cuồng thịt (có lẽ là điên như bọn Nhật, Hàn ngày trước), vốn quen ăn thịt trong quân đội nên khi về ăn cơm “no man” thì thèm ăn. để làm thịt Nó không thể chịu đựng được, vì vậy những người lính xuất ngũ của hoàng đế đôi khi bí mật giết động vật để ăn, mặc dù chúng đã được phơi bày trước công chúng vào ngày hôm sau.

Dish of the Great Sword

Trước đây, tôi đã từng mê mẩn món kẹo cao su to dài. Bữa tiệc hoàng gia do siêu đầu bếp và em gái tổ chức sôi động đến mức tôi muốn ăn tối cùng nhau trên màn ảnh. Vì vậy, bữa sáng đầu tiên của tôi ở Seoul và tôi đã rất hào hứng. Họ bắt chúng tôi ăn “lẩu bò”. Vừa xuống sân bay vào một buổi sáng mùa thu se lạnh, bụng đói cồn cào và đôi chân run rẩy, một bữa lẩu bò trong căn phòng ấm áp không thể tuyệt vời hơn. Các nhà hàng Hàn Quốc thường ngồi ở phía sau, kê bàn ​​gỗ vuông vắn, trông ấm cúng. Đầu tiên, họ mang cho chúng tôi một bát kim chi ở mỗi bàn. Không giống như kim chi chua ngọt ở nhà hàng của chúng tôi, kim chi Hàn Quốc có vị cay và mặn. Mãi về sau, tôi mới biết vị mặn chóng mặt đó dùng để làm gì. Tiếp đó, mọi người được phục vụ một tô “lẩu bò”, trông giống như một tô hủ tiếu vui miệng chứ không phải lẩu như mọi người vẫn tưởng tượng. Chà, nếu không có nồi lẩu, phở ngon thế này thì tôi đã đói rồi. Chúng tôi húp vội ngụm nước dùng nhưng ai cũng nhăn mặt. Nước dùng có vị ngọt của xương và thịt, nhưng rất nhẹ, không có muối, hay nói đúng hơn là không có chút muối nào. Một nhóm hơn 20 người nháo nhào đi tìm gia vị. Anh Su, một nhân viên của công ty hợp tác, nhanh chóng giải thích rằng chúng tôi muốn tự làm món lẩu bò muối ở Hàn Quốc, ăn với kim chi là ngon nhất. Chúng tôi đã làm việc chăm chỉ để tạo ra sản phẩm của riêng mình, và cuối cùng nó đã hoàn thành. Nước dùng rất ngon và phở có thịt bò thái mỏng, giống như thịt bò nấu, cũng ngon, nhưng sợi mì ở dưới chứ không phải sợi phở. Tuy nhiên, khi ăn được vài miếng thì tôi thấy bên dưới có vài hạt cơm. Chuyện gì đã xảy ra? Cho bột vào khuấy đều và có cảm giác như cháo. Chà, cháo thì cơm cũng ngon. Ở nhà, cơm, cháo, hủ tiếu vẫn là những món ăn xa lạ. Ăn xong (mới ăn được một nửa), có người nhìn bát “lẩu bò” nghi ngờ và nói: “Đây là mì”. Một số khác phản đối “không phải mì mà là cháo”. Có một cuộc tranh cãi ngay lập tức. Mọi người chia làm hai phe: hủ tiếu và hủ tiếu. Cuối cùng, một người kết luận: “Không phải cháo, không phải mì, là mì – cháo”. Đúng rồi, mì cháo, chúng tôi thở dài vì nó vừa có mì vừa có cháo. Cuối cùng, khi cả đoàn lên xe, anh Sự dõng dạc hỏi: “Ăn lẩu bò có thấy ngon không?” – “Ngon lắm, cám ơn”, chúng tôi đồng thanh.

Cá tuyết Đại Tây Dương

Món ăn nổi tiếng của Bồ Đào Nha chủ yếu là hải sản. Chuyến đi này là của tôi, vì vậy nó có thể được đặt tên là “Chuyến tham quan hải sản”. Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Maroc chia sẻ sản lượng đánh bắt chung từ Đại Tây Dương. Chúng tôi sử dụng cá và tôm từ sân của chúng tôi. Có vẻ như cư dân của ba quốc gia này chỉ cần cúi xuống và đặt miếng cá lên khay. Khắp thành phố Lisbon, đứng ở góc nào cũng có thể nhìn thấy biển xanh lấp lánh. Những dân tộc không có bờ biển như Cộng hòa Séc, Áo, Hungary, Slovakia, Iraq, Congo, Zambia, Boswana, và cả Lào chắc hẳn rất giận Chúa, ngồi đó mà đố kỵ và ghen tị. Các quốc gia không có biển cũng rất hiếm. Những cư dân đầu tiên của Trái đất luôn phải dựa vào nước để tồn tại. Các nhà khảo cổ học tin rằng tổ tiên của người Bồ Đào Nha hiện đại, những người băng qua bán đảo từ Bắc Phi, đã khôn ngoan chọn một vùng đất nhỏ có chu vi bằng một nửa đường bờ biển. biển.

Hải sản là thứ nhất định phải có khi bạn đến Lisbon. Từ Plaza Comercio bên bờ biển, bạn sẽ thấy vô số nhà hàng với những thanh sắt đẹp mắt, và tôi đã thấy một thực đơn có rất nhiều hải sản với giá không quá sốc. Một trong những loại hải sản nổi tiếng nhất ở Bồ Đào Nha là cá tuyết, nhưng tôi thấy nó nhạt nhẽo và không vừa miệng như một đĩa salad bạch tuộc. Vùng biển của Đại Tây Dương cũng có rất nhiều bạch tuộc. Chúng tươi và giòn khi bày trên đĩa. Không một hành khách nào có thể từ chối một đĩa bạch tuộc hấp dẫn như vậy. Không giống như món bạch tuộc Pulpo a la Gallega của Madrid, chỉ có dầu ô liu, ớt bột và muối, món salad bạch tuộc của Bồ Đào Nha còn được trộn với giấm, hành tây, mùi tây, tỏi tươi và một ít trái cây. Này, nếu bạn có thể ngồi trên lan can và thả mình ra Đại Tây Dương xanh thẳm với những chiếc thuyền neo đậu phía xa và thưởng thức món salad bạch tuộc béo ngậy, thì đây là 7 món bạn không thể bỏ qua khi đến thăm. Khi đến Lisbon, bạn sẽ không bao giờ muốn coi thường thành phố của những nhà hàng hải giỏi nhất thế giới (nhiều người chỉ trích Lisbon là nhàm chán), bạn sẽ thấy rằng cuộc sống chỉ có vậy. Ăn bạch tuộc cũng là một loại thưởng thức, ăn bạch tuộc càng mang lại khoái cảm, ăn bạch tuộc tận trời xanh mây trắng, e rằng khoái cảm của con người sẽ thăng hoa gấp vạn lần.

Nửa trái đất uống một tách trà
hình ảnh
hình ảnh
hình ảnh

đề nghị đặc biệt
84,000 vnđ

350

[/su_spoiler]

Leave a Comment